Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS), người chưa thành niên (NCTN) phạm tội là những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm được quy định trong BLHS. NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý; khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ còn nhiều hạn chế. Họ dễ bị kích động, dụ dỗ vào việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội. Do đó, Nhà nước ta có đường lối xử lý trách nhiệm hình sự đối với NCTN nhẹ hơn người đã thành niên, thể hiện qua các quy định của BLHS, tập trung chủ yếu ở Chương X của Bộ luật này. Khi quyết định hình phạt đối với NCTN phạm nhiều tội (tổng hợp hình phạt đối với NCTN phạm nhiều tội) phải tuân thủ những quy định chung về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đồng thời phải tuân thủ những quy định riêng đối với NCTN phạm tội, đặc biệt là quy định về tổng hợp hình phạt theo Điều 75 của BLHS.
1. Quyết định hình phạt trong trường hợp có tội được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, có tội được thực hiện khi người đó đã thành niên
Căn cứ vào tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên hay đã thành niên, nhà làm luật đã quy định tổng hợp hình phạt theo hai trường hợp tại Điều 75 của BLHS: nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này (khoản 1); nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên, hình phạt chung được áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội (khoản 2).
Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp thứ hai như đối với người đã thành niên, nên tác giả chỉ phân tích trường hợp tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi (trường hợp thứ nhất).
Để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này, trước hết Toà án cũng phải quyết định hình phạt đối với từng tội. Nếu các tội bị xét xử trong cùng một lần, Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó căn cứ vào Điều 50 và Điều 75 của BLHS để tổng hợp hình phạt. Việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án trong trường hợp có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi được căn cứ vào Điều 51 và khoản 1, Điều 75 của BLHS. Cụ thể, người đang có bản án đã có hiệu lực pháp luật về tội được thực hiện sau khi người này đã thành niên, mà lại bị xét xử về tội năng hơn được thực hiện trong khi chưa thành niên, thì căn cứ vào khoản 1, Điều 51 và khoản 1, Điều 75 của BLHS để tổng hợp hình phạt; người đang có bản án đã có hiệu lực pháp luật về tội đã thực hiện khi người này chưa thành niên mà lại phạm tội mới nhẹ hơn khi đã thành niên, thì căn cứ vào khoản 2, Điều 51 và khoản 1, Điều 75 của BLHS để tổng hợp hình phạt.
Ngoài ra, việc tổng hợp hình phạt còn phải căn cứ vào Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn. Sau khi đã quyết định hình phạt đối với từng tội và xác định tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, Toà án tiến hành việc tổng hợp hình phạt để xác định hình phạt chung. Trong trường hợp hình phạt đối với các tội đều là hình phạt tù hoặc có hình phạt tù, có hình phạt cải tạo không giam giữ thì chuyển hình phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù theo tỷ lệ 3:1, sau đó tổng hợp các hình phạt theo quy định tại khoản 1, Điều 75 và Điều 74 của BLHS như sau:
- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi mà điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt tù chung cao nhất không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn, thì mức hình phạt chung cao nhất không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.
- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi mà điều luật quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt tù chung cao nhất không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn, thì mức hình phạt tù chung cao nhất không vượt quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định.
Trong BLHS Việt
Đối với trường hợp phạm một tội: mỗi một tội phạm cụ thể chỉ thuộc một khoản nhất định của điều luật với khung hình phạt tương ứng. Mặt khác, BLHS đã quy định những nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội theo hướng giảm nhẹ hình phạt so với người đã thành niên phạm tội trong cùng một khung hình phạt. Do đó, đối với những điều luật có nhiều khung hình phạt, “điều luật” ở đây phải được hiểu cụ thể là điều khoản được áp dụng.
Đối với trường hợp phạm nhiều tội: người phạm tội bị xét xử và tuyên hình phạt đối với từng tội, nên có nhiều điều luật được áp dụng. Vậy phải căn cứ vào điều luật nào để xác định mức hình phạt tù tối đa được áp dụng cho các tội? Trường hợp này, chúng tôi cho rằng, phải căn cứ vào điều luật được áp dụng đối với tội nặng nhất trong số các tội bị xét xử, bởi lẽ mức hình phạt tối đa của các tội không thể nhẹ hơn mức hình phạt tối đa của tội nặng nhất trong số các tội đó. Hiểu như như vậy mới có thể áp dụng được hình phạt công bằng, hợp lý, góp phần đạt được mục đích của hình phạt.
Ví dụ: Một người 17 tuổi 10 tháng phạm Tội cướp tài sản theo khoản 3, Điều 133 của BLHS. Sau đó, họ lại phạm Tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 2, Điều 135 của BLHS khi 18 tuổi 5 tháng. Người phạm tội bị truy tố, xét xử cùng một lần về hai tội này và bị xử phạt 12 năm tù về Tội cướp tài sản; 07 năm tù về Tội cưỡng đoạt tài sản. Tội cướp tài sản có loại hình phạt nặng nhất là tử hình (khoản 4, Điều 133 của BLHS); Tội cưỡng đoạt tài sản có loại hình phạt nặng nhất là tù có thời hạn đến 20 năm (khoản 4, Điều 135 của BLHS). Do đó, theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Tội cướp tài sản nặng hơn Tội cưỡng đoạt tài sản. Theo quy định tại khoản 1, Điều 74 và khoản 1, Điều 75 của BLHS, mức hình phạt tù tổng hợp của hai tội bị giới hạn không vượt quá 3/4 mức hình phạt tù cao nhất của điều luật được áp dụng. Trong trường hợp này, mức hình phạt tù tổng hợp của hai tội không được vượt quá 3/4 mức hình phạt tù cao nhất của khoản 3, Điều 133 của BLHS, tức là không vượt quá 15 năm tù (3/4 của 20 năm tù = 15 năm tù). Nếu không bị giới hạn bởi mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 và Điều 75 của BLHS, hình phạt tù chung của hai tội này là 12 năm + 07 năm = 19 năm, nhưng do bị giới hạn như trên nên hình phạt chung của hai tội trong trường hợp này là 15 năm tù.
Qua nghiên cứu cho thấy, quy định giới hạn mức hình phạt tù tối đa theo Điều 74 và Điều 75 của BLHS chỉ có thể chấp nhận được trong trường hợp tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, sau khi thành niên người này lại phạm một hoặc nhiều tội mà hình phạt đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội thấp hơn hoặc bằng mức hình phạt tối đa quy định tại Điều 74 của Bộ luật này. Còn trường hợp hình phạt đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên cao hơn mức hình phạt tối đa theo quy định, thì quy định tại khoản 1, Điều 75 đã bộc lộ rõ sự bất hợp lý. Bởi lẽ, hình phạt của tội hoặc của các tội được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên đã cao hơn mức hình phạt cao nhất theo quy định tại Điều 74 của BLHS, nhưng tổng hợp hình phạt này với hình phạt của tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, thì hình phạt chung của tất cả các tội lại thấp hơn hình phạt của tội hoặc của các tội được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên (chỉ bằng mức tối đa theo Điều 74 của BLHS). Ví dụ: Một người phạm Tội giết người theo khoản 1, Điều 93 của BLHS khi 17 tuổi 11 tháng, sau đó người này lại phạm Tội cướp tài sản theo khoản 3, Điều 133 khi 18 tuổi 02 tháng và Tội cố ý gây thương tích theo khoản 3, Điều 104 của BLHS. Toà án đưa bị cáo ra xét xử trong một lần về 3 tội trên và tuyên phạt 14 năm tù về Tội giết người, 12 năm về Tội cướp tài sản, 10 năm về Tội cố ý gây thương tích. Trong trường hợp này, tội nặng nhất là Tội giết người, có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên; do đó, hình phạt chung của các tội trên theo quy định tại khoản 1, Điều 74 và khoản 1, Điều 75 có mức tối đa là 18 năm tù. Trong khi đó, hình phạt chung của hai tội: Tội cướp tài sản và Tội cố ý gây thương tích đã là 12 năm + 10 năm = 22 năm. Nhưng khi tổng hợp hình phạt của hai tội này với hình phạt 14 năm tù của Tội giết người theo quy định của Điều 74 và Điều 75 BLHS, hình phạt chung là 18 năm, ít hơn hình phạt chung của hai tội: Tội cướp tài sản và Tội cố ý gây thương tích là bất hợp lý.
2. Quyết định hình phạt trong trường hợp các tội đều được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên
BLHS chưa quy định cụ thể về trường hợp này và các cơ quan hữu quan cũng chưa có văn bản hướng dẫn. Theo quy định của BLHS, NCTN được chia thành hai nhóm với đường lối xử lý khác nhau: nhóm NCTN từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và nhóm NCTN từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Do các tội đều được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, nên đương nhiên tội nặng nhất cũng được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Khoản 1, Điều 75 quy định tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, tội hoặc các tội khác được thực hiện khi người đó đã thành niên, mức hình phạt tù chung không được vượt quá mức tối đa quy định tại Điều 74. Do vậy, theo logic thông thường, tội nặng nhất và tội hoặc các tội khác nhẹ hơn đều được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, hình phạt tù chung cũng không thể vượt mức cao nhất theo quy định tại Điều 74 của BLHS. Trong điều này, NCTN được chia thành hai nhóm tương ứng với hai khoản là khoản 1 và khoản 2 với mức hình phạt cao nhất khác nhau. Theo đó, mức hình phạt tù tối đa đối với NCTN từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội thấp hơn mức hình phạt tù tối đa đối với NCTN từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội tương ứng. Do vây, mức hình phạt tù tổng hợp tối đa tuỳ thuộc vào tội nặng nhất được thực hiện khi NCTN phạm tội ở độ tuổi nào. Dưới đây, chúng tôi đề cập từng trường hợp cụ thể.
- Trường hợp các tội đều được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Theo tinh thần của khoản 1, Điều 75, hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất theo quy định tại khoản 2, Điều 74 của BLHS. Nghĩa là, nếu khung hình phạt đối với tội nặng nhất của điều luật được áp dụng là tù chung thân hoặc tử hình, hình phạt chung không được vượt quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn, mức hình phạt tù tổng hợp cao nhất không được vượt quá 1/2 mức phạt tù của khung hình phạt đối với tội nặng nhất. Ví dụ: Một người 14 tuổi 06 tháng phạm Tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, Điều 138 của BLHS; sau đó lại phạm Tội cố ý gây thương tích theo khoản 3, Điều 104 của BLHS khi 15 tuổi. Toà án đưa ra xét xử cùng một lần hai tội và xử phạt bị cáo 4 năm tù về Tội trộm cắp tài sản, 4 năm về Tội cố ý gây thương tích. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hình phạt tù tổng hợp của hai tội trên không quá 1/2 của khung hình phạt cao nhất của tội nặng nhất ở khoản 3, Điều 104 (15 năm) = 07 năm 06 tháng tù. Do bị giới hạn bởi mức cao nhất này, nên mức hình phạt tù tổng hợp của hai tội không phải là 08 năm (04 năm + 04 năm = 08 năm), mà là 07 năm 06 tháng tù.
- Trường hợp các tội đều được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Theo tinh thần của khoản 1, Điều 75, hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất theo quy định tại khoản 1, Điều 74 của BLHS. Nghĩa là, nếu khung hình phạt của tội nặng nhất được áp dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, mức hình phạt chung cao nhất không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn, mức hình phạt chung cao nhất không quá 3/4 mức phạt tù của khung hình phạt đối với tội nặng nhất.
- Trường hợp có tội được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, có tội được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi.
Trong trường hợp này, Toà án cần phải xác định tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi nào để tổng hợp hình phạt. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, tội khác được thực hiện ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất theo quy định tại khoản 2, Điều 74 của BLHS như đã nêu ở trường hợp thứ nhất. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, tội khác được thực hiện ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất theo quy định tại khoản 1, Điều 74 của BLHS như đã nêu ở trường hợp thứ hai.
3. Hoàn thiện các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội
Theo quy định của BLHS hiện hành, tổng hợp hình phạt trong trường hợp có tội được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, có tội được thực hiện khi người đó đã thành niên, hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74. Như vậy, mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều luật này được áp dụng đối với cả trường hợp NCTN phạm một tội và trường hợp NCTN phạm nhiều tội. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt
Về tổng hợp hình phạt trong trường hợp các tội đều được thực hiện khi người phạm tội chưa thành niên, cần bổ sung vào Điều 75 của BLHS một khoản quy định về tổng hợp hình phạt trong các trường hợp cụ thể sau: các tội đều được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; có tội được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, có tội được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; các tội đều được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Vì NCTN được chia thành hai nhóm với đường lối xử lý khác nhau, nên việc hoàn thiện các quy định về tổng hợp hình phạt đối với NCTN cũng cần phải căn cứ vào tội nặng nhất được thực hiện khi NCTN phạm tội ở độ tuổi nào. Mức hình phạt tổng hợp tối đa đối với NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải thấp hơn mức hình phạt tổng hợp tối đa đối với NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Như vậy, khoản 1 và khoản 2, Điều 75 của BLHS cần được chuyển thành điểm a và b tương ứng trong một khoản - khoản 1 quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi. Cùng đó, bổ sung một khoản - khoản 2 vào Điều 75 của BLHS quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp các tội đều được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi theo hai trường hợp: tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi; tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.Trên tinh thần này, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung điều 75 BLHS như sau:
“Điều 75. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
1. Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện trong khi đủ 18 tuổi trở lên, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
a) Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này.
Trong trường hợp sau khi thành niên, người này lại phạm một hoặc nhiều tội mà hình phạt đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội cao hơn mức hình phạt tối đa quy định tại Điều 74 của Bộ luật này, thì hình phạt chung của tất cả các tội bằng hình phạt của tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội được thực hiện khi người phạm tội đã thành niên.
b) Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung được áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.
2. Trong trường hợp các tội đều được thực hiện khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện như sau:
a) Nếu các tội hoặc tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1, Điều 74 của Bộ luật này.
b) Nếu các tội hoặc tội nặng nhất được thực hiện khi người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 2, Điều 74 của Bộ luật này”.
Ths Phạm Văn Thiệu - Tòa án nhân dân tối cao
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử
Nếu bạn thấy bài viết hữu ích, hãy ấn like để ủng hộ luật sư tư vấn
Hotline: 0934 585 568
Hotline: 0983 209 629